Hai bộ môn nghệ thuật truyền thống là Tuồng và Bài chòi dù có nguồn gốc, thời gian hình thành khác nhau và mang những đặc trưng riêng của từng loại hình nhưng lại có mối giao thoa, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình phát triển, để bổ sung và làm phong phú thêm về làn điệu, trình thức biểu diễn, nội dung đề tài lẫn phục trang, cảnh trí, đạo cụ… nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng đa dạng của công chúng.
Tuồng (hát Bội) được hình thành từ khá sớm. Trên cơ sở nền nghệ thuật ca - múa - nhạc và trò diễn phát triển, bộ môn nghệ thuật sân khấu Tuồng đã manh nha hình thành từ thời Trần rồi phát triển dần lên và hưng thịnh dưới thời Nguyễn. Nghệ thuậtTuồng từ hình thái sinh hoạt dân gian được nâng lên thành hình thức sân khấu cung đình và bác học, được tạo dựng bởi công lao gìn giữ, lưu truyền và vun bồi của rất nhiều thế hệ nghệ sỹ tài danh, sự ngưỡng mộ của người xem, từ những quan chức đến đông đảo quần chúng nhân dân. Ở Tuồng có điệu bộ, nói lối, hát Nam, hát Khách, bạch, ngâm, xướng, thán, tán… và các trình thức biểu diễn được ví như “khuôn vàng thước ngọc”, múa, hát “tới bờ tới góc”... Trong đó, người góp công lớn là nhà soạn Tuồng lỗi lạc Đào Tấn. Ông không những đã soạn nhiều vở Tuồng kinh điển mà còn lập ra Học bộ đình, làm thầy dạy Tuồng, dạy nhạc cho rất nhiều nghệ sĩ kế tục nổi danh. Ông được đời sau tôn vinh làm Hậu tổ nghệ thuật Tuồng. Còn nghệ thuật Bài chòi, từ một loại hình hô hát để đánh bài trong chòi do anh (chị) hiệu diễn xướng bằng sự sáng tạo độc đáo, thú vị theo lối dân gian. Trải qua quá trình hình thành Bài chòi trải chiếu và mạnh dạn chủ trương đưa Bài chòi “từ đất lên dàn” của các nghệ nhân là một bước tiến mới của nghệ thuật Bài chòi. Sau đó, Bài chòi đã phát triển thành một loại hình nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh như hiện nay. Chính sự phát triển đó đã nâng cao giá trị của Bài chòi đến gần gũi với công chúng từ nội dung kịch bản, hình thức biểu diễn đến giai điệu của âm nhạc. Sân khấu Bài chòi hấp dẫn, lôi cuốn người xem không chỉ về nội dung, tính chất mà còn bởi những tiết tấu sâu lắng, làn điệu ngọt ngào, đằm thắm, thiết tha làm say đắm lòng người. Nó như một “sợi dây” vô hình neo giữ tâm hồn người Việt. Với nghệ thuật Bài chòi, trong quá trình phát triển từ Bài chòi dân gian lên sân khấu Bài chòi cũng đã có phần chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật Tuồng về nội dung đề tài. Các anh (chị) hiệu ngoài việc dựa theo câu chuyện dân gian như Thoại Khanh - Châu Tuấn, Lâm Sanh - Xuân Nương… còn vận dụng một số lớp trong các truyện Tàu như: Quan Công phục Huê Dung lộ (trong truyện Tam quốc), Trại Ba và Địch Thanh trong tuồng “Ngũ hỗ bình Tây”… Các hiệu trong hội đánh Bài chòi phần nhiều là những nghệ nhân hát Bội diễn giỏi, hô hay đã thúc đẩy Bài chòi lớp ra đời trong hội Bài chòi. Bài chòi lớp là những trích đoạn được chuyển thể từ các lớp Tuồng: Cao Quân Bảo phá chiêu phu bài ở Song Tỏa Sang của Lưu Kim Đính (trong tuồng Tam hạ Nam Đường), Phạm Công vinh quy (trong tuồng Phạm Công - Cúc Hoa)… Ở Bài chòi lớp, các hiệu hóa thân vào nhân vật có hóa trang, phục trang, đạo cụ như Tuồng nhưng đơn giản hơn. Bài chòi còn chịu ảnh hưởng của sân khấu Tuồng về làn điệu, cách nói lối. Nhiều câu, bài đã dùng cách nói lối của Tuồng để mở đầu câu thời kỳ còn Hô Thai (đố tên con bài). Ví dụ như khi hô tên con bài “Bạch huê” trong Bài chòi thì dựa theo tuồng “Huê Dung Lộ” để anh (chị) hiệu vay mượn câu nói lối của Tuồng: “Vạn cổ trung can huyền nhật nguyệt/ Thiên thu nghĩa khí quán càn khôn”. Rồi mới hát câu Bài chòi:“Quan Công hầu, tiết liệt nhất môn/ Lập đoan văn bắt Tào tặc chẳng tha hồn Tào Man/ Chốn chiến trường đoan thệ rõ ràng/ Qua Hoa Dung bắt Tào tặc mà tỏ lá gan anh hùng…”.Thêm vào đó, để làm phong phú làn điệu và tăng tính hấp dẫn cho người xem, các nghệ nhân Bài chòi đã sử dụng thêm một số làn điệu của Tuồng như hát Nam, hát Khách, hát Tẩu Mã… trong Bài chòi lớp.
Ngoài hai điệu Xuân Nữ và Xàng Xê dựa theo điệu hát Nam và hát Khách của Nghệ thuật Tuồng thì điệu cổ Bản của Bài chòi lúc mới ra đời được gọi là điệu Nam Xuân nhưng vì trùng tên với điệu hát Nam Xuân của Tuồng nên giới chuyên môn của nghệ thuật Bài chòi đã đặt tên là Cổ Bản. Bài chòi còn học cách nói lối, xuống hò theo điệu vọng cổ của sân khấu Cải lương (nhưng cách viết câu ngắn hơn) để tăng thêm độ mùi mẫn, ngọt ngào, câu hát dễ đi vào lòng người và hấp dẫn khán giả. Trải qua những biến cố, thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, Tuồng, Bài Chòi có lúc bị pha trộn, vay mượn một số hình thức biểu diễn, làn điệu của nhau về hát, múa, phục trang, đạo cụ, cả về nội dung đề tài… nhưng đều có cải biến, sửa đổi và chọn lọc cho phù hợp với đặc trưng của từng bộ môn. Đến nay, mỗi thể loại nghệ thuật vẫn mang những đặc điểm, tính chất riêng của từng loại hình. Tính độc đáo của Bài chòi không chỉ mang tính cộng đồng, tập thể, phản ánh phong phú các đề tài dân gian trên kịch bản sân khấu mà còn thể hiện sức hút của các làn điệu trữ tình mang tính gợi cảm, thướt tha mượt mà như làn điệu Xuân nữ; hùng dũng, mạnh bạo như điệu Cổ bản, Xàng xê; dịu dàng, sâu lắng như điệu Hò Quảng và các điệu lý, điệu hò, vè… Nhờ vậy, Bài chòi đã sống cùng với dân tộc suốt dòng chảy của thời gian hàng trăm năm. Những đặc trưng độc đáo của nghệ thuật Tuồng luôn được người trong nghề và giới chuyên môn khám phá, chứng minh làm nổi rõ: tính tượng trưng, ước lệ, cách điệu; tính bi - hùng kịch bạo liệt, phương thức hiện thực tả ý, các mô hình nhân vật, tính khái quát cao để xây dựng thành trình thức với những nguyên tắc chặt chẽ nhưng đồng thời lại mở ra “chân trời sáng tạo”, vì nghệ thuật sân khấu Tuồng trong bất biến có cái khả biến, vừa có cấu trúc tĩnh lại vừa có yếu tố động như các bậc tiền bối thường chỉ dẫn. Hai bộ môn nghệ thuật Bài chòi và Tuồng đều ra đời từ dân gian nhưng Tuồng đã đi vào cung đình để trở thành môn nghệ thuật bác học, kinh điển còn Bài chòi tuy phát triển thành Bài chòi chuyên nghiệp nhưng vẫn bám trụ trong lòng nhân dân lao động nông thôn và có một sức sống bất tận. Nó như một mạch nguồn âm ỉ, chỉ chực bùng cháy, tuôn trào cho thỏa lòng đam mê, nhiệt huyết của những nghệ nhân Bài chòi khắp nơi. Đây cũng là hai loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu. Thiết nghĩa cần có đội ngũ nghệ nhân, nghệ sỹ giỏi nghề, tâm huyết, luôn sẵn lòng dìu dắt các thế hệ tiếp nối, là điều kiện hết sức thuận lợi để bảo tồn và phát huy vốn nghề quý của Tổ nghiệp trong bối cảnh hiện nay. Nghệ thuật Tuồng - Bài chòi có mối giao thoa, học hỏi những tinh hoa của nhau giữa các loại hình. Đến nay, mỗi một bộ môn bên cạnh vẫn giữ được những đặc trưng, độc đáo riêng, đã có sự phong phú về làn điệu, trình thức biểu diễn, thủ pháp nghệ thuật, nội dung đề tài phản ánh… nhằm bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật truyền thống trong cuộc sống hôm nay .
Thúy Hường
Thống nhất điểm dừng kỹ thuật và điều chỉnh thiết kế bản vẽ thi công để dừng thực hiện quyết toán Dự án: Cải tạo sân vườn Trung tâm Văn hóa tỉnh Quảng Nam theo hướng Công viên văn hóa
Kế hoạch tuyên truyền hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2021 và tăng cường thực thi pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình tại Trung tâm Văn hóa Quảng Nam